Chủ nghĩa hiện thực (Realism)

Chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế

18lah16wzpxnopng

Tác giả: truong minh huy vu

Xem thêm: Chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tế

Chủ nghĩa hiện thực là một trong hai trường phái lý luận quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế ngoài chủ nghĩa tự do, được hình thành từ lâu đời và có ảnh hưởng lớn đến tư duy hoạch định và chính sách đối ngoại của các quốc gia. Mặc dù có nhiều nhánh nhưng nhìn chung, những người theo chủ nghĩa hiện thực đều có những giả định chính sau:

Các chủ thể chính trong hệ thống quốc tế là các quốc gia có chủ quyền – người dân, trong khi các chủ thể khác như các tổ chức quốc tế, NGO, mạnh>các tập đoàn đa quốc gia, các nhóm hoặc cá nhân, v.v. không có ảnh hưởng đáng kể đến vai trò. Về bản chất, hệ thống quan hệ quốc tế là một hệ thống vô chính phủ, không có quyền đối với các quốc gia trong việc điều chỉnh và quản lý các mối quan hệ của họ với nhau.

Do đó, mục tiêu của nhà nước là tìm cách tăng cường sức mạnh của mình để đảm bảo an ninh và sự tồn tại của chính mình trong hệ thống bằng cách giành được càng nhiều tài nguyên càng tốt. Điều này dẫn đến tình trạng các nước luôn ở trong tình thế cạnh tranh, đối đầu (nhiều trường hợp dưới hình thức chiến tranh, xung đột vũ trang) để mưu cầu lợi ích quốc gia dưới hình thức cường quyền, các nước không thể duy trì hợp tác lâu dài. Có thể thấy rằng hầu hết các giả định này đều trái ngược với giả định của chủ nghĩa tự do.

Với chiều dài lịch sử, khái niệm thúc đẩy quyền lực như một điều mà mọi quốc gia đều khao khát đạt được không phải là mới. Chúng ta có thể tìm thấy những lập luận tương tự trong các tác phẩm nổi tiếng của các học giả châu Âu và châu Á, đặc biệt là Thucydides, Machiavelli, Thomas Hobbes hay Hankon. Tuy nhiên, điều khiến chủ nghĩa hiện thực trở thành một lý thuyết được các học giả đặc biệt quan tâm là hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới vào nửa đầu thế kỷ 20, cách nhau chưa đầy 25 năm. Điều này làm suy yếu hy vọng của các chính phủ toàn cầu và những người theo chủ nghĩa lý tưởng “hòa bình vĩnh cửu” mong muốn.

Tham khảo: Cách quan hệ bằng miệng với TOP 12 tư thế thổi bùng lửa yêu

Trong cuốn sách nổi tiếng Chính trị giữa các quốc gia: Cuộc đấu tranh giành quyền lực và hòa bình, tác giả Hans Morgenthaus lập luận rằng nếu một người tin vào hòa bình và hòa bình được thiết lập bởi các thể chế hoặc quốc tế trong một thế giới bình đẳng, thì ý tưởng đó đã đi quá xa. Theo quan điểm của Morganhouse, một sự thật dường như rõ ràng đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích các sự kiện trong chính trường thế giới là yếu tố quyền lực và việc theo đuổi các mục tiêu giữa các quốc gia.

Quyền lực theo quan điểm hiện thực không chỉ là phương tiện để nhà nước đạt được mục đích của mình, mà bản thân nó là mục đích thông qua hai giả định. Thứ nhất, quyền lực là động lực đằng sau chính sách đối ngoại của các quốc gia. Câu hỏi tại sao một quốc gia chọn chính sách a hay chính sách b chỉ có thể được giải thích qua lăng kính quyền lực. Morganhouse trả lời bằng một trích dẫn từ điều được coi là nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực: “Chính trị thế giới, giống như tất cả các hình thức chính trị khác, là một cuộc đấu tranh giành quyền lực. Mục tiêu cuối cùng của chính trị quốc tế, dù ở đâu, là quyền lực.”

Thứ hai, quyền lực được định nghĩa là khả năng gây ảnh hưởng và thay đổi hành vi của các quốc gia hoặc tổ chức khác vì lợi ích cá nhân. Nói cách khác, tranh giành quyền lực có thể hiểu là tranh giành khả năng tác động đến hành vi và suy nghĩ của các quốc gia khác. Theo quan điểm của Morganhouse, đây là một đặc điểm thường xuyên của chính trị quốc tế. Trong một thế giới vô chính phủ, mục tiêu của mỗi quốc gia là tự trang bị càng nhiều càng tốt để đảm bảo an toàn và tồn tại. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quyền lực khiến các quốc gia phải đối mặt với tình thế “tiến thoái lưỡng nan về an ninh”. Tương ứng, một quốc gia càng cố gắng gia tăng sức mạnh của mình thì càng tạo ra sự bất an cho các quốc gia khác, buộc các quốc gia phải cạnh tranh định kỳ để gia tăng sức mạnh nhằm đảm bảo an ninh của chính họ.

Kể từ khi thành lập, Chủ nghĩa hiện thực đã phát triển với nhiều bổ sung khác nhau. Hiện tại, chủ nghĩa hiện thực chủ yếu được chia thành hai nhánh, đó là chủ nghĩa hiện thực cổ điển và chủ nghĩa hiện thực mới, còn được gọi là chủ nghĩa hiện thực cấu trúc. chủ nghĩa hiện thực cấu trúc).

Chủ nghĩa hiện thực cổ điển

Cũng cho rằng các quốc gia luôn theo đuổi quyền lực, nhưng chủ nghĩa hiện thực cổ điển cho rằng chính bản chất ích kỷ và ham muốn quyền lực của con người đã khiến các quốc gia và cá nhân đặt lợi ích của họ dưới sự kiểm soát của các giá trị khác. Nói cách khác, chủ nghĩa hiện thực cổ điển nhấn mạnh mức độ phân tích cá nhân trong chính trị quốc tế. Do đó, Hans Morgenhaus, một trong những học giả hàng đầu về tư tưởng hiện thực cổ điển, đã nhận xét rằng bản thân con người là một thực thể mạnh mẽ đạt được các mục tiêu cá nhân bằng cách chiếm đoạt hoặc tích lũy tài nguyên. Theo quan điểm xã hội học, khuynh hướng tìm kiếm quyền lực là một nguyên tắc có thể tìm thấy trong mọi cơ cấu tổ chức giữa con người với nhau: từ nhà thờ cho đến các hiệp hội. Ở đâu có các nhóm cá nhân liên kết với nhau, ở đó có tranh giành quyền lực. Vì vậy, các quốc gia tìm kiếm quyền lực và chiến tranh giữa các quốc gia phát sinh từ bản chất ích kỷ, ham muốn quyền lực của người dân, đặc biệt là cá nhân lãnh đạo.

Đang xem: Thủ đô của Ấn Độ là gì? Địa điểm tham quan nổi tiếng ở thủ đô Ấn Độ

Chủ nghĩa hiện thực mới

Khác với chủ nghĩa hiện thực cổ điển nhấn mạnh mức độ phân tích cá nhân, chủ nghĩa hiện thực mới nhấn mạnh hơn vào mức độ phân tích hệ thống quốc tế khi phân tích lý do tại sao các quốc gia theo đuổi quyền lực. Do đó, những người theo chủ nghĩa hiện thực mới lập luận rằng trong một hệ thống vô chính phủ, sự phân bổ quyền lực tương đối giữa các quốc gia trong hệ thống là chìa khóa cho an ninh của mỗi quốc gia. Do đó, các quốc gia tìm cách gia tăng quyền lực của mình, bởi vì một quốc gia càng sở hữu nhiều quyền lực thì vị thế của quốc gia đó trong hệ thống thế giới càng cao và càng an toàn.

Mặt khác, các quốc gia cũng cố gắng tìm cách cân bằng với các cường quốc nhằm giảm thiểu khoảng cách quyền lực, đồng nghĩa với việc giảm thiểu các mối đe dọa về an ninh. Theo những người theo chủ nghĩa hiện thực mới, chiến tranh giữa các quốc gia phát sinh từ các cuộc tranh giành làm tăng sức mạnh tương đối của mỗi quốc gia so với các quốc gia khác trong hệ thống, chứ không phải từ những sai sót cố hữu trong hệ thống. Con người như một lý lẽ cho chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Chủ nghĩa hiện thực mới còn được gọi là chủ nghĩa hiện thực cấu trúc do nó nhấn mạnh vào ảnh hưởng của bản chất hệ thống quốc tế đối với việc theo đuổi quyền lực nhà nước.

Trong chủ nghĩa hiện thực mới, câu hỏi hạn chế việc theo đuổi các mục tiêu quyền lực được trả lời theo cách khác. Chủ nghĩa hiện thực phòng thủ cho rằng các quốc gia tìm kiếm quyền lực ở mức tối thiểu để đảm bảo sự tồn tại. Nói cách khác, quyền lực là phương tiện của nhà nước chứ không phải là mục đích. Ngoài ra, có quá nhiều quyền lực có tác dụng phụ, và các quốc gia thù địch sẽ cố gắng cân bằng quyền lực thông qua các cuộc chạy đua vũ trang hoặc tạo ra hoặc tham gia các liên minh quân sự thù địch, dẫn đến các mối đe dọa đối với an ninh quốc gia khi gia tăng quá nhiều quyền lực.

Đồng thời, trường phái “chủ nghĩa hiện thực tấn công” tin rằng không có giới hạn quyền lực so với các quốc gia khác trong hệ thống, và nhà nước cần giành được càng nhiều quyền lực càng tốt để đảm bảo an ninh và sự thống trị. John Mearsheimer là đại diện nổi tiếng nhất của trường phái này. Theo quan điểm của Mearsheimer, chỉ khi một quốc gia trở thành quốc gia hùng mạnh nhất trong hệ thống quốc tế hoặc khu vực, quốc gia đó mới có thể bảo vệ an ninh và lợi ích của chính mình một cách hiệu quả nhất. Anh ấy sử dụng thuật ngữ “khu vực bá quyền” để mô tả lập luận này. Tóm lại, với sự trỗi dậy của các cường quốc, sẽ không có quốc gia nào chấp nhận hiện trạng như một cường quốc, mà sẽ cố gắng thay đổi trật tự quốc tế hiện có và trở thành bá chủ khu vực. Quan điểm này khiến Mearsheimer trở thành nhà tư tưởng bi quan về sự trỗi dậy của cường quốc, đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy.

Chủ nghĩa hiện thực mới đã mở ra một cách nhìn mới trong khung lý thuyết phân tích chính trị quốc tế, trở thành một trong những lý thuyết được thảo luận, bổ sung, mở rộng và phê phán nhiều nhất trên thế giới trong hơn ba thập kỷ qua. Ví dụ, một số học giả lập luận rằng cân bằng quyền lực không phải là một chính sách phổ quát trong các tình huống mà các quốc gia phải đối mặt với các cường quốc đang trỗi dậy. Stephen Walter lập luận rằng chính sách cân bằng thực sự bắt nguồn từ một lý do khác, đó là nỗi sợ hãi. Các quốc gia có xu hướng tái cân bằng các quốc gia mà họ cho là mối đe dọa đối với họ, hơn là tái cân bằng các quốc gia có lợi thế. Thiết lập này còn được gọi là lý thuyết cân bằng mối đe dọa, trái ngược với lý thuyết cân bằng quyền lực. Hơn nữa, đối với một số học giả như Randall Schweller, cân bằng quyền lực không phải là lựa chọn phổ biến nhất. Đối mặt với các nước lớn, các nước nhỏ thường hùa theo để được hưởng lợi và đảm bảo không bị các nước lớn tấn công.

Mặc dù có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng rộng rãi trong chính trị quốc tế, nhiều học giả ngày nay tin rằng chủ nghĩa hiện thực không còn là một lý thuyết thích hợp để giải thích các hiện tượng. Quá trình toàn cầu hóa làm cho thế giới trở nên nhỏ hơn trong chính trị quốc tế và tình trạng phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc. Tương ứng, các quốc gia có xu hướng hợp tác nhiều hơn trên nhiều lĩnh vực và số lượng chiến tranh giữa các quốc gia ngày càng giảm.

Tuy nhiên, nhiều người cảm thấy rằng cần thêm thời gian trước khi kết luận rằng chủ nghĩa hiện thực không còn phù hợp để giải thích chính trị quốc tế. Một mặt, trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực đã thể hiện khả năng tự điều chỉnh mạnh mẽ để duy trì sức sống của mình, một ví dụ điển hình là sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực mới. Mặt khác, bên cạnh xu thế hợp tác, các quốc gia ngày nay tiếp tục duy trì chính sách chính trị cường quyền, thể hiện ở việc không ngừng nâng cao sức mạnh tổng hợp, mà điển hình gần đây là sự trỗi dậy của Trung Quốc với tác động đối với thế giới. tình hình chính trị, an ninh khu vực và toàn cầu.

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (eds.), Sổ tay thuật ngữ quan hệ quốc tế, (tphcm: qhqt University of Science and Technology, tphcm, 2013).

Đang xem: TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN THƯỞNG, CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM