Sắc dục là gì? Sự nguy hiểm khi tâm sắc dục

Sắc dục là gì

Contents

Ham muốn là gì?

Mọi thứ trên đời đều muôn màu muôn vẻ và mỗi thứ đều có giá trị riêng. Nếu nó có một sắc thái đáng yêu nào đó, chúng tôi bắt đầu suy nghĩ kỹ về việc tìm cách mang nó trở lại tay mình. Còn những thứ mang sắc thái thương ghét thì chúng ta bắt đầu hủy diệt, muốn hủy diệt. Yêu-ghét là hai mặt của tư duy tình dục. Dù có nhiều nền tảng giáo dục nhưng chúng không ngoài tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngủ, tóm lại đó là một sự thôi thúc bên trong mà chúng ta không thể kiềm chế được và chúng ta phải hành động để thỏa mãn nó.

Thông thường, khi nói về tình dục, người ta có xu hướng nhấn mạnh đến tình yêu nồng nàn, say đắm. Dục vọng cũng có thể là ham muốn mọi hình thức làm hài lòng, từ ngoại hình của đàn ông và phụ nữ cho đến những kho báu vô tri vô giác như vàng, bạc, châu báu hoặc thiên nhiên. Thực vật tự nhiên như hoa lan, đào nở,…

Xem thêm: Sắc dục là gì

Tham lam là sự tự hủy hoại cuộc sống, là kẻ nghiện rượu thế tục buông mình cho dục vọng không ngừng. Đức Phật ví họ như những đứa trẻ si mê tiếc ít mật ong trên lưỡi dao sắc bén của mình và liếm lấy lưỡi đau đớn.

Sự nguy hiểm của ham muốn tình dục

Trong strong>(anguttara nikaya) về sự nguy hiểm của dục vọng, có đoạn sau:

“Một thời Ngài sống ở sàvatthi, khu rừng jetavana, trong khu vườn của ông Anaàthapindika. Tại đó, Thượng tọa nói với các Tỳ-kheo:

– Chư Tăng!

– Vâng, thưa ngài!

Các Tỳ kheo đó vâng lời Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói:

– Này các Tỳ-kheo, tôi không thấy có sắc nào khác xâm nhập và điều khiển tâm người nam như sắc nữ. Này các Tỷ-kheo, hình ảnh người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.

Này các Tỳ kheo, tôi không thấy có tiếng nào khác xâm chiếm và ngự trị tâm đàn ông như của đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng nói của người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.

Tham khảo: SỬA KHÓA KÉT SẮT

Này các Tỳ-kheo, tôi không thấy khứu giác…nếm…xúc nhập và chi phối tâm người đàn ông như mùi…vị…xúc giác…một người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, đây là chạm vào người đàn bà để thâm nhập và điều khiển trái tim của người đàn ông.

Này các Tỳ kheo, tôi không thấy có một hình thức màu sắc nào khác xâm chiếm và kiểm soát trái tim của một người phụ nữ như nam giới. Này các Tỷ-kheo, hình ảnh người nam xâm chiếm và điều khiển trái tim người nữ.

Chúng tôi không thể nhìn thấy âm thanh…mùi…hương vị…một lần chạm khác. Này Tỷ-kheo, điều này thâm nhập và ngự trị trái tim người đàn bà giống như giọng nói… mùi… xúc chạm của đàn ông. Này các Tỷ-kheo, chạm vào người nam để xâm chiếm và chế ngự tâm người nữ…”

Từ đây có thể thấy Đức Phật đã chứng kiến ​​một cách đúng đắn về chánh kiến, tức là tâm tham lam nhìn bề ngoài. Ngài dạy cho tu sĩ và cư sĩ về sự nguy hiểm của dục vọng, để họ biết và tránh xa nó. Ngài chỉ ra rằng khi sáu căn (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và được nhận thức thì lòng tham dục sẽ phát sinh. . Sáu thức (sắc thức, thanh thức, vị thức, vị thức, xúc thức, thức). Hướng ngoại tình dục có nghĩa là khi tiếp xúc với người khác giới, mỗi giác quan trong sáu giác quan này sẽ dấy lên trong lòng ham muốn nhục dục, thể hiện sự thích thú và nhiệt tình với tình dục. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy bài kệ sau:

“Cúi đầu,”

Bước đi không dính mắc,

Sáu căn hộ thông minh,

Khả năng kiểm soát tâm trí rất tốt,

Không rò rỉ,

Không cháy đỏ”

Tham khảo: Cá Quả

Muốn tâm không có dục vọng thì phải khéo bảo vệ lục căn, tâm không dễ phóng dật phóng dật.

Ham muốn tình dục là khi một người giao tiếp, giao tiếp với người khác giới, người đó luôn nghĩ đến sắc dục và những suy nghĩ và ý tưởng dâm dục, rồi thể hiện chúng qua hành động và lời nói. Tâm màu có một lực mạnh đến mức có thể thu hút lòng người.

Người chạy theo sắc dục không chán như người uống nước mặn, càng uống càng khát. Ham muốn nhanh chóng làm cơ thể khô héo và tâm trí bị bệnh, và theo cách này, nó chứa đựng nhiều phiền não và đau đớn hơn. Thiện nam tử vì sắc mà thành kẻ cướp, hiếu tử vì sắc mà nổi loạn, chồng hiền vợ đức vì sắc mà mất lòng chung thủy, bỏ nhà ra đi. Ngay cả một cặp vợ chồng hạnh phúc và yêu thương nhau, chung thủy, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, cũng chỉ có thể hạnh phúc trăm năm, bởi vì ai cũng phải chết, và luật vô thường không thể tránh khỏi. Hạnh phúc chỉ là thứ hạnh phúc tạm bợ, mong manh khó có thể coi là vĩnh cửu và trường tồn.

Vì tham dục nên con người phải chịu muôn ngàn khổ đau, nên con người phải lăn lộn trong luân hồi. Do vô minh, con người không hiểu được chân lý của khổ đau nên rơi vào vòng luẩn quẩn của tham lam. Những người vẫn còn quan tâm và đam mê tình dục sẽ không thể thực hành moksha.

Thảo luận của Phật giáo về sắc dục

Trong quá khứ, Đức Phật còn là một Thái tử, Ngài từng sống một cuộc sống sung túc hạnh phúc. Ngài có một người vợ xinh đẹp, giữa hoàng tử và công chúa Dada Dala chưa bao giờ xảy ra tranh chấp hay bất hòa mà cả hai sống rất yêu thương và thương xót lẫn nhau. Hai người là vợ chồng, nhưng cũng là bạn thân. Nhưng không phải vì thế mà hoàng tử si mê.

Người ấy còn nghĩ đến những vấn đề khác, đánh thức niềm hạnh phúc tạm bợ của ngũ hỷ: danh (danh, nghiệp), lợi (lợi ích, cung kính), sắc (sắc), thực (ăn), lá (ngủ). Chính 5 điều này tác động và chi phối đến thân tâm của mỗi con người. Ngài cũng cho rằng sống là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, sầu, đau là khổ… Nhận thấy sự nguy hiểm, ngài dũng cảm rời bỏ cung điện và vợ. Đứa trẻ xinh đẹp đang đi vào sâu trong rừng để tìm ra sự thật. Ngài có trí tuệ nên hiểu được những điều ấy là đau đớn, nên Ngài đã từ bỏ tất cả của cải và hạnh phúc để xuất gia tu hành, đoạn trừ những thói hư tật xấu nguy hiểm.

Đạo Phật cho rằng vị ngọt của cuộc đời là một loại hạnh phúc mong manh, lục căn của con người đều là do sự vô thường của cuộc đời mà có. Mọi thứ trên đời đều có thể thay đổi, dù tốt hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, không có cách nào giữ nó mãi mãi. Đạo Phật cho thấy bản chất của dục là thứ mong manh như hạt bụi, đến rồi đi vội vã, không thể nắm bắt được.

Đức Phật dạy muốn tâm trong sáng không tham dục thì phải quán thân bất tịnh. Bởi vì cơ thể của chúng ta thực ra rất hôi thối và ô uế, và nó chứa đầy những thứ ô uế, máu, mủ, mồ hôi, đờm, … được bao phủ bởi một lớp da, giống như một chiếc túi da thông thường. Ngài cũng dạy rằng thân này không phải là ta, của ta hay của ta, thân này do vô minh (nghiệp) tạo thành thân tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong). Thân tứ đại không nên có thật, nhân duyên hợp thành thân ngũ uẩn, dù có tham ái đến đâu cũng không thoát khỏi quy luật sinh lão bệnh tử. tương lai. Già, bệnh và chết, rồi lại bệnh, già và chết.

Muốn thoát khỏi phiền não khổ đau, muốn được giải thoát thì phải hiểu rõ tác hại của dục vọng, quán chiếu được chánh kiến ​​và nhận ra chân lý của cuộc đời này, đó là quy luật trường sinh bất biến. Bạn càng thực hành Phật giáo, bạn càng ít có khả năng có những tư tưởng dâm dục và phát sinh những tư tưởng dâm dục. Nếu trong lòng còn chút tham dục, tà dâm thì khó ra khỏi tam giới, luân hồi vẫn còn. Dục là gốc của sinh tử, nếu dứt được tà dâm thì thoát khỏi tam giới, thành Phật.

Sắc dục tạo nghiệp gì?

Người có tâm tham dục đều là những người tham lam, ham danh lợi, phù phiếm nên họ sẽ nhận lấy quả báo của lòng tham mà không thấy chán chường, bất an. Fan Xiongde từng nói: “Thiên đạo thu hút mỹ nhân, thời gian quả báo đến nhanh. Người không sợ hãi, mộng không bao giờ nếm trải. Ma trượng thường hại người tham, quả báo thường đến rất nhanh.” rằng nó giống như một giấc mơ và điên cuồng, nhưng họ không biết Sợ hại là gì, lười biếng không tự kiểm tra và tự chuốc lấy tai họa.

Dục vọng là tự hủy hoại bản thân, bởi vì dục dục hủy hoại sinh mạng, hại người hơn cầm thú, hại người hơn cả nước dâng. Dục vọng làm mê muội con người, khiến con người làm điều ác, tạo ác nghiệp và tai họa cho đời sau, con người đau khổ và bị tiêu diệt.

Sắc dục, tà dâm chỉ là nhất thời, nhưng nghiệp chướng để lại thì lớn như núi. Đối với những kẻ ngoại tình, một số chết, một số lơ là nhiệm vụ và một số tan nát gia đình. Một người đàn ông giàu có mà ngoại tình cũng sẽ trở nên khốn khổ. Người có phước trường thọ có thể bị quả báo tàn tật và tự sát nếu tà dâm.

Tham khảo: Thế giới quan duy vật là gì? Có thuộc phạm trù triết học không?